Cập nhật lúc:
18/05/2020 16:13
Vào những ngày này, với lòng biết ơn sâu sắc, cả nước ta kỷ niệm
130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu, Anh hùng giải
phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Ngành Ngoại giao Việt Nam rất vinh
dự và tự hào được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng
Ngoại giao đầu tiên. Là lãnh tụ thiên tài, là nhà ngoại giao kiệt xuất đã sáng
lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, Bác đã chỉ đạo công tác ngoại giao
nước nhà vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần giành độc lập, tự do và thống
nhất đất nước. Từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa Việt Nam, bằng kho
tàng tri thức đồ sộ Đông - Tây, với bản lĩnh dạn dày và kinh nghiệm vô cùng
phong phú qua hàng chục năm bôn ba hoạt động cách mạng, Bác đã để lại cho nền
ngoại giao Việt Nam hiện đại một tư tưởng ngoại giao đặc sắc - Tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao hàm những nguyên lý, nội
dung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Người đề cao các quyền
dân tộc cơ bản, bao gồm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hòa bình và chống chiến
tranh xâm lược. Người nhấn mạnh ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân
tộc mà phục vụ”(1); độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với đoàn kết
và hợp tác quốc tế, theo đó Việt Nam sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai”(2). Người hết sức coi trọng tình hữu nghị
và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới; mở rộng bang giao với
các nước trong khu vực và trên thế giới; xử lý tốt quan hệ với các nước lớn để
phục vụ lợi ích cách mạng.
Trong phương pháp, Người xác định ngoại giao phải là một mặt
trận, một binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn
“vừa đánh vừa đàm”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên
sức mạnh tổng hợp to lớn. Người luôn đặt Việt Nam trong dòng chảy của thế giới,
coi trọng các trung tâm quyền lực, các trào lưu lớn. Người đặc biệt đề cao “dĩ
bất biến ứng vạn biến”, lấy cái không thể thay đổi để ứng phó với muôn sự thay
đổi, giữ vững tính nguyên tắc, kiên định, vững chắc của mục tiêu chiến lược với
tính linh hoạt, uyển chuyển của sách lược cách mạng. Phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh còn thể hiện truyền thống yêu hòa bình của dân tộc ta, nỗ lực giải
quyết bất đồng bằng các phương cách hòa bình.
Trên nền tảng văn hóa dân tộc, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh
thấm đẫm giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn văn hóa
Đông - Tây. Về tư duy, Người căn dặn phải có quan điểm toàn diện, “nhìn cho
rộng, suy cho kỹ”, để thấy rõ được xu thế chung và chiều hướng của tiến bộ xã
hội. Trong ứng xử, Người kết hợp hài hòa giữa các giá trị dân tộc và quốc tế,
làm cho mọi người cảm thấy gần gũi, thân tình. Trong giao tiếp, Người dùng cách
thể hiện bình dị để gửi gắm hiệu quả những thông điệp ngoại giao.
Nét nổi bật trong nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là sự vận
dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết
dừng và biết biến), là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, là ngoại giao
tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo
lý. Những thành tựu của đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc ta đã thể hiện rõ nét sự tài tình của Hồ
Chí Minh trong việc vận dụng các nghệ thuật ngoại giao để đưa cách mạng đến thành
công.
Thực tiễn đã chứng minh tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là di
sản vô giá, là nền tảng sức mạnh và là chìa khóa để triển khai thắng lợi, hiệu
quả đường lối đối ngoại của Đảng qua các giai đoạn cách mạng. Chính nhờ sự vận
dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao của Người trong tình hình mới, đối ngoại Việt
Nam đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần duy trì môi trường hòa
bình, thu hút các nguồn lực cho phát triển, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với 30 nước.
Chúng ta hết sức coi trọng quan hệ với các nước láng giềng chung biên giới, các
đối tác chiến lược, toàn diện; đã đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào
chiều sâu, ổn định, bền vững, từng bước xử lý ổn thỏa các vấn đề phát sinh, tồn
tại. Đồng thời, chúng ta đã nỗ lực phát triển quan hệ ngày càng thiết thực với
các nước láng giềng khu vực và bạn bè truyền thống.
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, hiệu
quả. Về kinh tế, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết
kinh tế thông qua ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do, qua đó tạo ra những
động lực to lớn cho phát triển. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá Việt Nam nằm
trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019.
Dù dịch Covid-19 đang gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn
tăng trưởng dương vào loại cao trong khu vực. Hội nhập quốc tế về chính trị -
an ninh - quốc phòng, xã hội - văn hóa và các lĩnh vực khác ngày càng sâu sắc.
Với thế và lực mới, Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực ở
hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều
trọng trách, đang phát huy hiệu quả vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam
đã và đang đóng góp tích cực trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế quan trọng
như: góp phần bảo đảm an ninh lương thực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế phòng, chống
dịch Covid-19, thúc đẩy hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều Tiên...
Trong môi trường quốc tế ngày càng phức tạp, đối ngoại đã góp
phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng ta đã nỗ lực xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát
triển với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Trước những phức tạp ở Biển Đông,
chúng ta đã đánh giá đúng tình hình, đấu tranh, xử lý kịp thời, tỉnh táo, sáng
suốt, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các
quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.
Bên cạnh những kết quả trên, các trụ cột và lĩnh vực quan trọng
khác của công tác đối ngoại đều đạt nhiều thành tựu. Đối ngoại Đảng, ngoại giao
Nhà nước, đối ngoại nhân dân, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại quốc phòng - an
ninh được triển khai hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng; ngoại giao kinh
tế, ngoại giao văn hóa, bảo hộ công dân, công tác người Việt Nam ở nước ngoài,
thông tin đối ngoại cũng được triển khai chủ động, tích cực, góp phần quan
trọng vào thành tựu đối ngoại chung của đất nước.
Bên thềm thập niên thứ ba của thế kỷ 21, thế giới đang chứng
kiến những biến động to lớn, sâu sắc và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, song đại dịch Covid-19 đã góp phần đẩy nhanh hơn những
chuyển biến sâu sắc trong cục diện quốc tế, tác động trực tiếp tới môi trường
an ninh và phát triển của nước ta. Chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để đặt Việt Nam vào đúng “dòng chảy của thời đại”,
tạo sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt Nam tới những thắng lợi mới.
Theo đó, ngoại giao Việt Nam cần phát huy tốt vai trò là “một
mặt trận” tiên phong nhằm củng cố vững chắc môi trường quốc tế thuận lợi và thu
hút các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, bảo vệ Tổ
quốc từ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy. Các “binh chủng” của đối ngoại Việt
Nam, gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân cần đồng tâm
hiệp lực để tận dụng được những cơ hội mới và xử lý hiệu quả những thách thức
phức tạp đang đặt ra. Chúng ta cần vận dụng tốt nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”. Cần kiên định mục tiêu bất biến là lợi ích tối thượng của quốc gia -
dân tộc với nội hàm là hòa bình, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng
cao sức mạnh và vị thế của quốc gia; đồng thời, linh hoạt, khéo léo trong sách
lược, hành động để xử lý cái “vạn biến” của tình hình. Trước những phức tạp ở
Biển Đông, chúng ta kiên trì sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh
chấp, đồng thời “kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(3) như lời
Bác căn dặn.
Chúng ta cũng cần tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hội
nhập quốc tế sâu rộng để đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân và
doanh nghiệp. Thực hiện tư tưởng của Bác về đoàn kết và hợp tác quốc tế, chúng
ta tiếp tục coi trọng quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới; đưa
vào chiều sâu quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời,
tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Trong tình hình mới, cán bộ đối ngoại cần thường xuyên phấn đấu,
tu dưỡng như lời Bác dặn: “chỉ có qua học tập, qua sự cố gắng của từng cá nhân
và cả ngành thì công tác ngoại giao mới đáp ứng nhu cầu của đất nước”(4). Cán
bộ đối ngoại cần vừa “hồng”, vừa “chuyên” để xây dựng nền ngoại giao Việt Nam
hiện đại trong thời kỳ mới. Đặc biệt, cần thực hiện lời căn dặn của Bác: “phải
luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ và nhà ngoại giao phải khôn khéo để lợi
ích đó được đảm bảo”(5).
Dưới ánh sáng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, ngoại giao
Việt Nam sẽ tiếp tục viết nên những thành công mới, đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm
châu như Bác hằng mong ước.
(1) Bác
Hồ nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt
Nam.
(2) Hồ
Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 5, trang 256.
(3) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.522.
(4) Bác
Hồ nói về ngoại giao, Học viện Quan hệ quốc tế, Nxb. Hà Nội, 1994, tr.16.
(5) Hồ
Chủ tịch nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao
Việt Nam.
PHẠM BÌNH MINH, Ủy
viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao
Theo nhandan.com.vn